CÔNG TY TNHH DƯỢC PHẨM HỒ LÔ VÀNG

Nhân sâm - vị thuốc bổ nhưng không phải ai cũng dùng được

Nhân sâm thuộc nhóm thuốc bổ dưỡng trong y học cổ truyền. Tuy là thuốc bổ nhưng khi sử dụng không phải bất kỳ ai cũng phù hợp.

 


 

1. Công dụng và liều dùng của nhân sâm

Theo đông y, nhân sâm có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (ấm) tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết, sinh tân dịch, ích trí, làm sáng mắt, trừ tà khí, làm chậm lão hoá, tăng tuổi thọ.

Dùng trong các trường hợp: Khí huyết suy hư, cơ thể suy nhược, phế hư sinh ho suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, người mới ốm dậy, người suy nhược thần kinh thường hoảng hốt, bất an.

Dùng riêng hoặc phối hợp với những vị thuốc khác. Ngày dùng 2 - 6g, có khi nhiều hơn (12 - 20g). Sắc uống, chưng cách thuỷ hoặc hấp, ngâm rượu, tán bột, nấu với các thực phẩm khác...

2. Lưu ý khi dùng nhân sâm

Nhân sâm làm tăng cường hoạt động của hệ tuần hoàn và hô hấp, tăng hưng phấn thần kinh, tăng sức lực, tăng khả năng lao động… Cho nên, chỉ sử dụng vào buổi sáng hoặc chiều, không sử dụng vào buổi tối, để cơ thể được nghỉ ngơi tốt hơn. 

Không nên dùng nhân sâm cùng với củ cải, cà phê, chè và những chất kích thích thần kinh khác làm giảm tác dụng của nhân sâm.

photo-1661223265866

Lưu ý khi dùng nhân sâm, thể chất quá suy không thu nạp được lại gây phản tác dụng.

Những người đang bị bệnh thực chứng (tức là bệnh cấp tính) như: Cảm sốt phong hàn, cảm mạo phong nhiệt, đau bụng tiêu chảy do trúng thực, do nhiễm thấp nhiệt, sốt xuất huyết, viêm gan cấp, viêm tuỵ cấp, viêm loét dạ dày – tá tràng, bị giãn phế quản, ho ra máu, người bị cao huyết áp, bị bệnh hệ thống miễn dịch (ban đỏ, mụn nhọt, việm khớp dạng thấp, da cứng…), thanh niên hay bị xuất tinh sớm, di tinh, phụ nữ đang mang thai, trẻ em dưới 14 tuổi...không nên dùng nhân sâm.
 

Là thuốc đại bổ nguyên khí, phù hợp với những người khí suy. Tuy nhiên, những người nguyên khí không bị suy tổn dùng nhân sâm dễ dẫn đến chứng "khí ứ hóa hỏa". 

Sách cổ có ghi: Những người có thể trạng âm hư hoả vượng, âm hư nội nhiệt với các triệu chứng: Người gầy, da khô, nóng, lòng bàn tay, bàn chân nóng, miệng khô khát nước, trong lòng phiền muộn, bứt rứt, mất ngủ, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, sốt hâm hấp vào buổi chiều, đại tiện táo, tiểu tiện vàng, chất lưỡi đỏ nhạt… không nên dùng.

Cần bổ mới bổ, không phải trường hợp suy nào cũng bồi bổ được. Cơ thể hư nhược đương nhiên cần phải bổ nhưng chứng hư thì có âm hư, dương hư, huyết hư, khí hư do đó cần phải xem xét cân nhắc trước khi dùng thuốc. 

Không nên bổ thái quá và cho rằng càng bổ càng tốt. Đề phòng hiện tượng "quá suy không thu nạp được bổ" lại gây phản tác dụng.

Đánh giá của Khách Hàng
0
0
0
0
0
0/ 5

0 đánh giá

LIÊN HỆ TƯ VẤN NGAY: 089 886 3839